Chủ Nhật, 14 tháng 10, 2012

KIỂM ĐIỂM...

Tháng trước, anh Tuấn gửi mail hỏi tôi về cái mẫu bản tự kiểm điểm theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 4. Tôi bảo, tôi không thuộc diện được kiểm điểm trong dạo đó (mà là đối tượng sẽ kiểm điểm sau cùng - tức hạng đảng viên thường). Nếu anh Tuấn muốn biết nên kiểm điểm thế nào chắc phải theo hướng dẫn của cấp ủy cấp trên. Còn không thì hỏi anh Thái thử xem... Tôi cũng... hướng dẫn đại: tinh thần là vẫn như kiểm điểm cuối năm, có điều là không giới hạn trong một năm mà dài hơn, nêu chi tiết hơn, cụ thể hơn, đặc biệt là phải nêu rõ các khuyết điểm, hạn chế... Theo hướng dẫn của Ban Tổ chức Trung ương, thì với các cán bộ lãnh đạo chủ chốt, có 3 vấn đề cần quan tâm làm rõ các ưu khuyết, là: thực hiện vai trò lãnh đạo, người đứng đầu trong việc thực hiện nhiệm vụ chính trị, theo chức năng nhiệm vụ và sự chỉ đạo, phân công của cấp trên; về công tác cán bộ; về tư cách, đạo đức, lối sống... Cần nhấn mạnh các hạn chế, khuyết điểm và biện pháp khắc phục, sửa chữa.
Nói chung, "được" kiểm điểm sớm là các anh chị đang giữ các cương vị lãnh đạo, quản lý. Các anh chị phải làm gương thôi!
Tôi có kinh nghiệm ở vài đơn vị đã kiểm điểm đối với lãnh đạo. Bản kiểm điểm cũng chủ yếu nói mặt mạnh, nói thành tích - bản thân mình lắm khi không đủ khách quan để nhìn nhận các khuyết điểm, hạn chế. Phần đóng góp cũng hầu như không ai nói về các khuyết điểm, nên rốt cuộc mọi thứ "vũ như cẩn". Tôi không biết ở Trung ương làm thế nào, và nếu kiểm điểm như thế thì tác dụng cuối cùng đến đâu...
Gần đây, anh Viết Sử cũng hỏi viết kiểm điểm thế nào. Quả khó thật. Tôi đang nói mọi người đều có ý thức tốt, đảm bảo chấp hành Cương lĩnh, Điều lệ. Chứ còn người khác, đã có "tật", chắc lại càng băn khoăn, vì phải giấu các "tật" đó như thế nào, đối phó với các góp ý (nếu có) như thế nào...
Xem ra Nghị quyết Trung ương 4 cũng không dễ thực hiện...
Còn các anh chị thấy sao?

NHỚ C2...

Hôm thứ năm, 11-10, bạn Nguyễn Văn Tới gọi điện hỏi thăm, nhằm bữa tôi đang nghỉ phép sau tai nạn giao thông. Nghe Tới nói, mọi thứ "vũ như cẩn", cũng thấy "nôn" cho bạn. Nhưng biết làm sao hơn... Rất nhiều người trong chúng ta cũng chưa có gì đổi khác. Mà chưa đổi khác tức là mọi thứ vẫn đang ổn định, cũng tốt chứ, có sao đâu! Tới rủ khi nào tôi về Định Quán thì qua Đức Linh chơi...
Tâm trạng của Tới chắc cũng giống của tôi và của nhiều anh chị khác. Đó là nỗi nhớ C2... Mới đó mà đã gần 5 tháng chia tay nhau rồi. Nhớ những ngày này năm trước chúng ta còn bên nhau... Vậy mà... Thời gian qua thật nhanh, đến độ, lắm khi chúng ta còn không có dịp để nghĩ ngợi, để nhớ...
Dù thế nào cũng xin chúc các anh chị C2 luôn mạnh khỏe, an lành, thăng tiến... Hãy đừng quên C2 của chúng ta nhé...

Thứ Tư, 19 tháng 9, 2012

CHÚC MỪNG SINH NHẬT MAI THƯƠNG (20-9)

Hôm nay là sinh nhật bạn Mai Thương. Chúc Mai Thương luôn mạnh khỏe, may mắn, thành đạt và hạnh phúc.
Hẳn các anh chị vẫn chưa quên một Mai Thương vui vẻ, yêu đời hay đi cùng với... một cô gái? Hy vọng sẽ sớm có tin cô nàng lên xe bông!
Hôm 16-9 là sinh nhật Minh Châu. Cô em út của C2 vừa nhận công tác tại Phòng Tài nguyên - Môi trường quận 4. Mới nhận việc nên còn... hơi chán! Hy vọng cô em sẽ sớm thích nghi với công việc mới, môi trường mới!

Chủ Nhật, 26 tháng 8, 2012

TỐT NGHIỆP

Lớp C2 đã hoàn tất chương trình của mình với kết quả rất mỹ mãn. Cả lớp có 50/50 đạt kết quả từ khá trở lên, trong đó có 13 anh chị xếp loại giỏi (đứng đầu là Tuyết Sương với 8,69). Có chút đáng tiếc là Ngọc Sơn đã thiếu 0,01 điểm nữa để đủ xếp loại giỏi. Xếp loại đảng viên, đều đủ tư cách hoàn thành tốt nhiệm vụ. Không có sự cố nào đáng tiếc xảy ra (trừ chuyện ngày 24-5..., nhưng chuyện đó lớp ta chỉ liên quan chứ không tham gia!). Có chút đáng tiếc là C2 đã không được khen thưởng tập thể xuất sắc (thuộc về C5).
Dưới đây là một số hình ảnh trong lễ tốt nghiệp.
Cà phê chờ buổi lễ bắt đầu...

Nhận bảng điểm, quyết định tốt nghiệp...
Đại diện nhận giấy chuyển sinh hoạt đảng tại Văn phòng Đảng ủy
Làm một sổ thủ tục trước sự chứng kiến của thầy chủ nhiệm

Phấn khởi nhận bằng tốt nghiệp

Các anh chị Tuyết Sương, Hoàng Nam, Minh Hải nhận giấy khen với danh hiệu "học viên giỏi toàn khóa"

NGÀY HỌC CUỐI CÙNG

Ngày học cuối cùng là ngày 24-5. Ngày đó có một sự kiện đáng nhớ. Xin xem vài hình ảnh dưới đây nhé!


Nhớ lại ngày hôm đó lòng buồn man mác...

Tạp bút

NHỚ BLOG...

Một bữa Nhài nhắn tin "trách": Sao lâu rồi blog không thấy thông tin gì mới...
Nhài trách đúng quá. Hơn 3 tháng rồi, blog không có gì mới. Bận. Nhưng vẫn có chút "băn khoăn": không biết có ai đọc không...
Dù sao cũng rất cảm ơn các bạn đã đọc, đã chia sẻ, động viên và góp ý. Gần 3.000 lượt xem quả là ít nhưng cũng đã là gần 3.000 lượt quan tâm, nhớ đến của các bạn.
Rồi sẽ cố gắng duy trì blog theo cách tốt nhất có thể.
Nhưng cần sự đồng hành của tất cả các anh chị của C2...
Nhớ C2 quá...

Thứ Năm, 17 tháng 5, 2012

Bài tham khảo môn Xây dựng Đảng


Tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác tư tưởng
Tuyên truyền là một bộ phận, một tác nghiệp của công tác tư tưởng có vị trí hết sức quan trọng, bởi vậy, Người định nghĩa và xác định rõ mục đích của tuyên truyền “Tuyên truyền là đem một việc gì nói cho dân hiểu, dân nhớ, dân theo, dân làm. Nếu không đạt được mục đích đó, là tuyên truyền thất bại”

Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh rất chăm lo đến công tác giáo dục chính trị tư tưởng, bởi theo Người “Tư tưởng không đúng đắn thì công tác ắt sai lầm”; rằng “Trong Đảng và ngoài Đảng có nhận rõ tình hình mới, hiểu rõ nhiệm vụ mới thì tư tưởng mới thống nhất, tư tưởng thống nhất thì hành động mới thống nhất”(1). Công tác tư tưởng tự bản thân nó đã hàm chứa những vấn đề nhạy cảm, phức tạp, đa chiều, liên quan đến tâm tư nguyện vọng của cán bộ, đảng viên, nhân dân; liên quan đến sự thành bại của sự nghiệp cách mạng. Người nói: “Lãnh đạo quan trọng nhất là lãnh đạo tư tưởng, phải hiểu tư tưởng của mỗi cán bộ để giúp đỡ thiết thực trong công tác; vì tư tưởng thông suốt thì làm tốt, tư tưởng nhùng nhằng thì không làm được việc”(2). Trong báo cáo tại Hội nghị lần thứ 6 Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá II (15-7-1954), trong mười công tác được xác định thì công tác lãnh đạo tư tưởng là quan trọng nhất (3). Hồ Chí Minh luôn yêu cầu “Cán bộ lãnh đạo và cán bộ các ngành, tư tưởng phải thông, phải thật thông. Phải có quyết tâm khắc phục khó khăn, làm tròn nhiệm vụ”(4). “Phải đánh thông tư tưởng và động viên sáng kiến và lực lượng của toàn Đảng, toàn dân. Mọi người quyết tâm làm cho được và tin tưởng làm nhất định được”(5). Mỗi lần về thăm các nhà máy, công trường, hợp tác xã, Bác Hồ luôn nhắc nhở, động viên cán bộ, đảng viên, nhân viên “Muốn quản lý tốt thì cán bộ và công nhân phải thông suốt tư tưởng”.
Trên cơ sở quy luật của công tác tư tưởng, Người đã trù liệu hệ quả khi đảng viên chưa thông suốt tư tưởng sẽ dẫn tới những biến dạng khôn lường “Nếu đảng viên tư tưởng và hành động không nhất trí, thì khác nào một mớ cắt rời, “trống đánh xuôi, kèn thổi ngược”. Như vậy, thì không thể lãnh đạo quần chúng, không thể làm cách mạng”(6). Do đó mà Người luôn canh cánh kỳ vọng làm sao tư tưởng tiên tiến, tư tưởng XHCN phải trở thành chủ đạo, trường tồn cùng với Đảng, với cán bộ, đảng viên và nhân dân. Người chỉ rõ “Tư tưởng thông suốt thì mọi việc làm đều tốt. Phải làm cho tư tưởng xã hội chủ nghĩa hoàn toàn thắng, tư tưởng cá nhân hoàn toàn thất bại”(7).
Tuyên truyền là một bộ phận, một tác nghiệp của công tác tư tưởng có vị trí hết sức quan trọng, bởi vậy, Người định nghĩa và xác định rõ mục đích của tuyên truyền “Tuyên truyền là đem một việc gì nói cho dân hiểu, dân nhớ, dân theo, dân làm. Nếu không đạt được mục đích đó, là tuyên truyền thất bại”(8). Người nói “Người tuyên truyền bao giờ cũng phải tự hỏi: Viết cho ai xem? Nói cho ai nghe? Nếu không vậy, thì cũng như cố ý không muốn cho người ta nghe, không muốn cho người ta xem”(9). Do mục đích, yêu cầu của công tác tuyên truyền, nhất là tính chính xác và sức lay động lan toả đối với dân chúng nên Hồ Chí Minh đòi hỏi cán bộ tuyên truyền “Phải biết cách nói. Nói thì phải giản đơn, rõ ràng, thiết thực. Phải có đầu, có đuôi, sao cho ai cũng hiểu được, nhớ được”(10); rằng: Người tuyên truyền không điều tra, không phân tách, không nghiên cứu, không hiểu biết quần chúng, chỉ gặp sao nói vậy, bạ gì viết nấy, nhất định thất bại. Khi tuyên truyền vận động đồng bào dân tộc thiểu số, Người lưu ý: Phải nói thiết thực, rõ ràng để đồng bào dễ nghe, dễ hiểu và làm được tốt.
Với sự quan sát và thông qua nhiều kênh tiếp nhận, với tình cảm chân thành mà Người nhắc nhở, phê phán một số báo cáo viên thiếu chủ động, đầu tư trong việc chuẩn bị bài nói, thuyết trình “Nhiều người trước khi nói không sắp sửa kỹ càng. Lúc ra nói hoặc lắp lại những cái người trước đã nói. Hoặc lắp đi lắp lại cái mình đã nói rồi”(11); hoặc “Nhưng viết một cách cao xa, mầu mè, đến nỗi chẳng những quần chúng không hiểu, mà cả cán bộ cũng không hiểu”(12). Đặc biệt Người còn phê phán một số người sính dùng chữ, nhất là thích dùng chữ Hán “Tiếng ta có thì không dùng, mà cứ ham dùng chữ hán. Dùng đúng, đã là một cái hại, vì quần chúng không hiểu. Nhiều người biết không rõ, dùng không đúng, mà cũng ham dùng, cái hại lại càng to”(13). Vì vậy, Hồ Chí Minh mong muốn làm sao trong mỗi bài nói, bài viết phải thấu cảm được ý tưởng và mong ước của nhân dân. Người yêu cầu “Mỗi tư tưởng, mỗi câu nói, mỗi chữ viết, phải tỏ rõ cái tư tưởng và lòng ước ao của quần chúng”(14). Có như vậy công tác tư tưởng mới đạt được mục tiêu “được người, được việc, được tổ chức” như nguyên Tổng bí thư Lê Khả Phiêu đã khẳng định. “Phải đạt được mục đích tăng cường đoàn kết nhất trí trong Đảng, trong quân đội”(15).
Hơn lúc nào hết đội ngũ cán bộ Tuyên truyền “Phải có lòng tự tin, tin vào mình, tin Đảng, tin giai cấp, tin nhân dân mình”(16), thiếu nó thì khó có thể hoàn thành tốt các nhiệm vụ được giao trên mặt trận tư tưởng văn hoá. Xuất phát từ vai trò, tầm quan trọng của công tác tư tưởng nên Người luôn mong muốn “Người tuyên truyền cần phải chịu khó, chịu khổ, khéo ở, siêng làm. Chớ tưởng rằng: Đi phớt qua địa phương, diễn thuyết một hai giờ đồng hồ mà có kết quả. Đến một địa phương nào cần phải đi thăm các cụ phụ lão, các người phụ trách, rồi đi thăm các nhà đồng bào để gây cảm tình, và để hiểu biết tình hình địa phương”(17). Người còn chỉ giáo “Thấy dân làm việc gì, bất kỳ to nhỏ, ta cũng ra tay làm giúp. Đó là cách gây cảm tình tốt nhất, nó sẽ giúp cho việc tuyên truyền kết quả gấp bội”(18). Cán bộ Tuyên truyền cần phải chủ động học tập nâng cao trình độ, kiến thức, nếu không sẽ lạc hậu, thoái bộ; luôn nắm vững chủ trương, nghị quyết của Đảng, pháp luật của Nhà nước, tập quán, sinh hoạt của nhân dân. Chú trọng “nâng cao trình độ lý luận, gắn liền công tác lý luận với thực tiễn cách mạng; phải đi sát thực tế, phải liên hệ mật thiết với quần chúng”(19). Đồng thời Người còn căn dặn: Cán bộ, đảng viên phải nâng cao chí khí chiến đấu, nâng cao lòng tin tưởng. Trong kháng chiến rất khó khăn nếu chí khí chiến đấu của bộ đội, cán bộ, nhân dân mà sụt thì sẽ thất bại.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đi xa chúng ta nhưng tư tưởng của Người nói chung, về công tác tư tưởng nói riêng vẫn còn sống mãi với thời gian, với Đảng ta, và đội ngũ những người làm công tác Tuyên giáo hôm nay. Đó là hành trang, phương pháp luận quý báu để Đảng ta, đội ngũ làm công tác tuyên truyền vững tin hơn, trí tuệ sắc sảo hơn nhằm góp phần nâng cao chất lượng công tác tư tưởng của Đảng lên một tầm cao mới. Đặc biệt càng có ý nghĩa cấp bách khi Đảng ta thực hiện chủ trương mở cửa, hội nhập; khi các lực lượng thù địch chưa từ bỏ mưu toan chống phá cách mạng nước ta, hòng chia rẽ Đảng với nhân dân; khi “Công tác tư tưởng còn thiếu sắc bén, tính chiến đấu còn hạn chế…; chưa làm tốt công tác giáo dục chính trị, tư tưởng và đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, tư tưởng cơ hội, những quan điểm mơ hồ, sai trái; thiếu quan tâm giáo dục lý tưởng, đạo đức, lối sống”(20). Khắc phục và thực hiện tốt các nhiệm vụ đó là nhân tố để “Đảng ta là một tập thể lớn, tư tưởng nhất trí, hành động nhất trí” trong tiến trình kiến tạo đất nước theo lý tưởng xã hội chủ nghĩa, đẩy nhanh công nghiệp hoá, hiện đại hoá vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
TS. Nguyễn Thế Tư, Học viện Chính trị- Hành chính khu vực III
Tài liệu tham khảo
(1); (2); (3) Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb CTQG, H, 2000, tập 7, tr.319; tr.466; tr.319
(4); (5); (6); (7) Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb CTQG, H, 2000,
tập 9, tr.224; tr.246; tr.288; tr.277
(8); (9); (10); (11); (12); (13); (14); (17); (18) Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb CTQG, H, 2000,
tập 5, tr.162; tr.300; tr.162; tr.301-302; tr.304; tr.305; tr.306; tr.163; tr.163
(15); (16); (19) Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb CTQG, H, 2000,
tập 8, tr.353; tr.385; tr.157
(20) Văn kiện Hội nghị lần thứ năm ban chấp hành Trung ương khoá X, Nxb CTQG, H, 2007, tr.36
http://tuyengiao.vn/Home/nghiepvu22/nghiepvutuyentruyen/2008/10/2601.aspx

Thứ Tư, 16 tháng 5, 2012

Bài hát

Đêm Gành Hào nghe điệu hoài lang
Sáng tác: Vũ Đức Sao Biển
(Nhớ chuyến đi Cà Mau tháng 3...)

Dưới trăng dòng sông trôi rất dịu dàng,
Như dải lụa vàng xuôi về phương Đông.
Gành Hào ơi, nửa đêm ai hát lên câu hoài lang
Vầng trăng nghiêng xuống trên vạt rừng tràm.
Xề u xế u liêu phạn, dây tơ đàn kìm buồn thiết tha
Xề u xế u liêu phạn, đưa cung đàn về trên bến xa.
Đường dù xa ong bướm, xin đó đừng phụ nghĩa tào khang
Đêm luống trông tin bạn ngày mỏi mòn như đá vọng phu,
Vọng phu vọng luống trông tin chàng.
Lời ai ca... dưới ánh trăng nay,
Rừng nước mênh mông đêm Gành Hào chợt thương nhớ ai,
Ngày ấy ra đi con sông buồn tiễn một dòng trôi.
Bạc Liêu ơi... có nhớ chăng ai?
Thuở ấy thanh xuân trăng Gành Hào tròn như chiếc gương
Giờ tóc pha sương qua Gành Hào tiễn một vầng trăng.

http://www.nhaccuatui.com/nghe?M=dsNzvg1Fm7

CHIA BUỒN VỚI BẠN THANH THÚY

Hôm nay vào thi môn Lịch sử Đảng, bạn Trần Thị Thanh Thúy đã kể chuyện không vui. Hôm kia ghé mua đồ, để cái ba lô trước xe, bị kẻ gian lấy mất, gồm nhiều giấy tờ và cả bộ áo dài rất đẹp mặc chụp hình lưu niệm với lớp. Đã vậy, kẻ xấu còn bắt Thúy chuộc giấy tờ với giá 600.000đ. Đúng là họa vô đơn chí!
Dù sao thì "của đi thay người" vậy!
Xin chia buồn với Thúy. Từ đây trở đi em phải cảnh giác hơn nhé!

LÀM LUẬN VĂN

Sau nhiều nỗ lực, C2 đã có 13 anh chị đủ điểm làm luận văn tốt nghiệp (trong tổng số 73 người của 8 lớp, tính bình quân khoảng 9 người/lớp. Như vậy, tỉ lệ của lớp C2 là khá cao. Các anh chị đó là:
1. Lại Minh Đạo (Khoa Văn hóa và phát triển)
2. Nguyễn Minh Hải (Khoa Xây dựng Đảng)
3. Trần Thị Nhài (Khoa CNXHKH)
4. Đỗ Hoàng Nam (Khoa Chính trị học)
5. Tống Văn Nam (Khoa TLH&XHH)
6. Nguyễn Thị Đông Quỳnh (Khoa TLH&XHH)
7. Phan Thị Tuyết Sương (Khoa Tư tưởng HCM)
8. Mai Thanh Thảo (Khoa TLH&XHH)
9. Trần Thị Thanh Thúy (Khoa Quản lý kinh tế)
10. Phan Huy Toàn (Khoa Quản lý kinh tế)
11. Nguyễn Thị Thanh Trà (Khoa CNXHKH)
12. Nguyễn Hoàng Trung (Khoa TLH&XHH)
13. Nguyễn Đình Tuấn (Khoa NN&PL)
Có một số trường hợp đáng tiếc do thiếu điểm ở những môn cuối nên không lọt vào được danh sách này như Hà Ngọc Sơn, Nguyễn Viết Sử, Bùi Phi Hùng... Rất mừng là nhiều trường hợp dù chưa đủ điểm loại giỏi ở 16 môn vẫn quyết tâm phấn đấu ở 4 môn còn lại và 3 môn tốt nghiệp. Tinh thần đó thật đáng hoan nghênh!

ĐÁNH CỜ TƯỚNG

Chiều tối 10-5, giải cờ tướng Học viện chào mừng ngày sinh Bác Hồ đã diễn ra ở phòng L106. So với giải năm trước, giải năm nay số kỳ thủ giảm đáng kể, chỉ còn 15 người - nhằm đợt nghỉ dài nên một số người đã về quê, không thể tham gia thi đấu.
Rất mừng là 3 anh em của lớp C2 (gồm Nguyễn Tiến Sỹ, Nguyễn Hữu Đính, Nguyễn Minh Hải) đã được sự ủng hộ, động viên nhiệt thành của lớp phó phong trào Nguyễn Đình Tuấn, người lẽ ra sáng 11-5 mới vào trường. Có lẽ vì vậy anh em chơi rất tốt. Sỹ dễ dàng bảo vệ chức vô địch với 3 trận thắng 1 trận hòa khá chóng vánh (giải năm trước Sỹ thắng tuyệt đối 5/5 ván). Hải thì vất vả hơn, giành được 3 trận thắng, cùng điểm với người xếp hạng nhì chung cuộc nhưng kém chỉ số phụ, đành xếp hạng Ba. Đính cũng chơi rất cừ, các ván đều làm đối phương khốn đốn!
Chỉ tiếc là không có giải đồng đội, do thiếu đối thủ (!), chứ không thì C2 đã thắng tuyệt đối rồi!
Năm nay lớp không thi đấu bóng đá, bóng chuyền, cầu lông, chỉ dự mỗi cờ tướng. Và vì vậy, thành tích đó cũng đáng an ủi!

CHỤP HÌNH LƯU NIỆM

Sáng thứ hai, 14-5-2012, lớp tập trung chụp hình lưu niệm. Mọi người đều mặc đẹp. Nhất là các chị em, khỏi phải nói áo dài đẹp thế nào...
Cuối tiết thứ hai, trời nắng chang chang, ai cũng nheo mắt, nhíu mày. Lên ảnh không đáng nhớ không ăn tiền!
Hết chụp chung cả lớp là chụp từng tổ và chụp 14 chị em với nhau. Dĩ nhiên cũng có những màn solo không thể đẹp hơn!
Dưới đây là một số hình ảnh:

50 gương mặt đáng nhớ

Tổ 1 (còn thiếu Phan Hoàng Vũ)

14 bông hoa của lớp

Thứ Ba, 24 tháng 4, 2012

Ngày 1-4, một số tỉnh thành phía Nam đã phải hứng chịu cơn bão số 1. Ngay tại TP.HCM, nhiều nhà bị tốc mái, rất nhiều cây bị gãy đỗ, có chỗ đè lên cả ô tô, nhà cửa... TP.HCM thật hiếm hoi phải gánh một cơn bão như thế.
Hôm đó, tôi đi xe máy từ Đồng Nai về TP.HCM, mưa tầm tã suốt chặng đường, gió thổi vù vù, lúc qua cầu Đồng Nai suýt bị thổi bay xe... Nghĩ lại mà rùng mình!
Hôm 3-4 đi học lại, phòng 312 chưa có người ở nên vẫn còn lênh láng nước - mưa tạt từ cửa lá sách. Mấy anh em phải rất vất vả mới lau dọn xong. Ngoài cửa sổ, hai cây sứ to đã bị tróc gốc nằm nghiêng ngả.
Mấy ngày sau, người ta nhổ bỏ cây móng bò trước phòng L.105 và trồng vào đó một cây sứ bông màu hồng. Cạnh đó, người ta cũng đã trồng thêm một cây sứ hoa màu đỏ, vốn đang trồng trong trường cũng bị ngã. Tự nhiên thấy nhớ cây móng bò hoa hồng phơn phớt quá!
Một cơn bão thật đáng nhớ!

Tản mạn...

Lớp C2 sắp kết thúc. Đã học môn thứ 19, chỉ còn môn Xây dựng đảng. Tự nhiên tôi thấy buồn buồn...
Từ ngày tốt nghiệp đại học đến nay, tôi đã trải qua 4 lớp: lớp bằng C tiếng Anh (năm 2000 - 2001), trung cấp hành chính (2005 - 2007), cao học báo chí (2008 - 2010) và lớp cao cấp lý luận chính trị - hành chính (2011 - 2012). Chỉ có lớp C2 là vui nhất, cảm thấy học được nhiều nhất và dĩ nhiên thấy đáng nhớ nhất. 49 anh chị trong lớp mỗi người mỗi vẻ đã để lại những dấu ấn riêng trong tôi, thật khó phai nhạt. Có thời gian, tôi sẽ ghi lại cảm nhận về từng người trong lớp.
Sắp hết khóa học rồi. Hẳn mỗi người thấy thở phào nhẹ nhõm, bởi đi học luôn rất vất vả. Nhưng hẳn mỗi người cũng sẽ ít nhiều thấy bùi ngùi nghĩ đến ngày không còn gặp bạn bè C2 nữa. Chắc chắn sau khi tan khóa, không có dịp nào để có đủ 50 người cùng gặp gỡ, họp mặt.
Còn vài tuần nữa, hãy hỏi han nhiều hơn, chia sẻ nhiều hơn, thông cảm nhiều hơn... Không phải cuộc đời lúc nào cũng có những ngày tháng vui vẻ và đẹp đẽ như thế...
Phải không các anh chị?

Bài viết


PHẢI CHÚ Ý RÚT NGẮN KHOẢNG CÁCH GIÀU NGHÈO

NGUYỄN MINH HẢI
Bài đã đăng báo Tuổi trẻ ngày 5-3-2012

Đám cưới “siêu khủng” ở Hà Tĩnh được nhiều người ví là đã có giá đến 25 bệnh xá cho xã vùng sâu (1 tỉ đồng/bệnh xá) , 830 căn nhà tình nghĩa (30 triệu đồng/nhà), 25.000 suất học bổng (1 triệu đồng/suất)... Trước đó, một đám cưới khác cũng đình đám bởi cả cô dâu chú rể đều thuộc hàng “hot”, còn một trong hai nhà sui cũng là một đại gia, nhưng có lẽ rình rang nhất chính là dàn “siêu xe” đón dâu. Dĩ nhiên còn nhiều hoạt động khác có chi phí quá lớn so với mức sống chung cũng có thể được so sánh tương tự. Đành rằng người ta tiêu tiền do họ có thể kiếm được một cách chính đáng nhưng rõ ràng đó là “xa xỉ giữa biển nghèo” như nhà văn Nguyễn Quang Thân đã viết (Tuổi trẻ, 3-3-2012). Liệu tiền đó có thể mang lại hạnh phúc viên mãn, khi nó trở nên quá cách biệt với cuộc sống của nhiều người dân trong nước?
Hiện nay, ở nước ta không khó để nhận ra sự chênh lệch mức sống trong các nhóm dân cư. Có một số ít người hiện rất giàu và họ sẵn sàng bỏ hàng chục tỉ đồng để sắm những phương tiện đắt tiền (máy bay, xe hơi, du thuyền…) nhưng cũng có không ít người phải chạy ăn từng bữa. Đặc biệt, với đồng bào vùng thường bị thiên tai giữ được tính mạng đã quý, còn lại gần như trắng tay. Họ có thể bắt đầu nghèo trở lại sau thời gian cố gắng vươn lên. Đằng sau đó dĩ nhiên chất lượng sống không được đảm bảo và sự chênh lệch về chất lượng sống. Tình trạng cách biệt giàu nghèo diễn ra ở khắp nơi trong nước ta với những mức độ khác nhau; ở nông thôn có sự cách biệt của nông thôn, ở thành thị có sự cách biệt của thành thị. Và giữa hai “đầu mút” của nông thôn và thành thị lại cách nhau rất xa.
Năm 2007, có người đã đặt ra tình huống 2 người ăn 1 con gà nhưng kỳ thực chỉ có một người ăn nguyên con, còn người kia… đứng nhìn. Sau 5 năm, tình hình hẳn khác đi, theo xu hướng là 3 người ăn 2 con gà. Tính bình quân thì một người ăn được hơn nửa con nhưng liệu có phải là sẽ có tình huống 1 người ăn cả 2 con, còn 2 người kia đứng nhìn, hoặc 1 người ăn gần hết 2 con, 1 người ăn phần còn lại và vẫn có 1 người nhịn? Ta sẽ không khó hình dung xu hướng thay đổi trong thời gian tới là: 4 người ăn 3 con gà, 5 người ăn 4 con gà, 100 người ăn 99 con gà… với sự phân chia là 1 người trong số đó ăn phần lớn số gà, một số ít người khác ăn được một ít và một số đông còn lại không ăn được tí nào. Ngay cả một xu hướng “đẹp” hơn và có nhiều khả năng xảy ra thì, 1 người ăn phần nhiều, nhiều người ăn phần ít còn lại và vẫn có một số ít người không được ăn, nếu như không có những biện pháp ngăn chặn có hiệu quả.
Đó là một thực tế xót xa. Bởi vì, nhìn toàn cảnh, xã hội ngày càng phát triển, đất nước ngày càng giàu mạnh. GDP hàng năm vẫn tăng đều đặn, thu nhập bình quân đầu người vẫn không ngừng tăng trưởng. Thế và lực của đất nước ngày càng được cải thiện. Đó là xu hướng tích cực mang tính tất yếu. Đó cũng là mong mỏi của tất cả người Việt Nam. Tuy nhiên, khoảng cách giàu nghèo cũng theo đó mà tăng lên. Điều đáng nói là dường như những người giàu thì ngày càng có xu hướng giàu thêm bởi họ có nhiều điều kiện thuận lợi, còn những người nghèo tuy có thể không nghèo hơn nhưng rất khó có sự cải thiện lớn về thu nhập do hạn chế về vốn, trình độ văn hóa, tay nghề…
Từ chênh lệch thu nhập sẽ kéo theo chênh lệch về khả năng được đáp ứng yêu cầu về giáo dục, y tế, giải trí… Tức là chất lượng sống của một bộ phận đông đảo người dân vẫn chưa được cải thiện nhiều. Hiện nay, với giá cả sinh hoạt đang tăng cao thì áp lực đời sống lên người nghèo lại càng lớn. Sự tăng giá với một số gia đình sẽ trở thành chiếc áo vất lên lưng con lừa đã chở quá nặng!
Điều tiết sự chênh lệch khoảng cách giàu nghèo phải bằng những chính sách mang tầm chiến lược, chứ không thể đơn lẻ ở từng địa phương hoặc từng thời điểm cụ thể. Trước hết phải có một quan điểm nhất quán và xuyên suốt về công bằng xã hội. Công bằng hoàn toàn không phải là cào bằng mà phải có sự quan tâm đúng mức, đồng bộ và thỏa đáng đến tất cả các nhóm cư dân trong xã hội. Chẳng hạn, tìm cách hỗ trợ doanh nghiệp thì cũng phải có biện pháp giúp đỡ nông dân, chăm lo cho các đối tượng thuộc diện chính sách, bảo trợ xã hội. Hay chính sách thuế cũng cần linh hoạt và nhân văn hơn, như miễn hoặc giảm thuế đối với người buôn bán nhỏ, nông dân sản xuất quy mô nhỏ (không phải trang trại), tăng thuế tiêu thụ đặc biệt đối với những mặt hàng xa xỉ, xem xét lại mức khởi điểm để tính thuế thu nhập cá nhân. Đồng thời, một mặt quản lý chặt hình thức cho vay vốn đối với các doanh nghiệp (để tránh thất thoát), mặt khác cũng mở rộng hình thức và số vốn cho vay đối với loại hình kinh tế hộ gia đình, nông dân…
Bên cạnh đó, cần chú trọng nâng chất lượng cuộc sống của người dân, xem đó là mục tiêu của việc giảm thiểu chênh lệch giàu nghèo, chứ không phải chỉ xét ở vấn đề thu nhập. Các chính sách an sinh xã hội, đặc biệt là về y tế, giáo dục, bảo hiểm, cần được quan tâm đúng mức.

Bài viết


SỨC DÂN ĐANG BỊ THỬ THÁCH
NGUYỄN MINH HẢI
Bài đã đăng Báo Tuổi trẻ, ngày 21-3-2012

Xăng dầu vừa lên giá, kéo theo giá cả một loạt hàng hóa và dịch vụ tăng theo, vừa tất yếu vừa “ăn theo”. Cùng với giá xăng dầu, giá gas liên tục tăng; còn giá điện có vẻ như cũng chuẩn bị tăng. Tiếp đó, Chính phủ có nghị định về thu phí bảo trì đường bộ với mức phí không hề thấp. Cùng thời điểm, giá hàng loạt dịch vụ y tế tăng từ 5 đến 20 lần. Trong khi đó, dự án Luật Thuế thu nhập cá nhân sửa đổi tiếp tục bị cho là lạc hậu (như lần ban hành trước) do các mức tính thuế không phù hợp thực tế và mãi đến năm 2014 mới áp dụng. Một sự kiện khác, không liên quan trực tiếp đến nhiều người nhưng cũng gây quan tâm là giá thu phí trên đường cao tốc TP.HCM – Trung Lương quá cao đến độ nhiều xe phải “né” sang quốc lộ 1, kết cục là trên con đường này sẽ... sớm có một trạm thu phí để “thu cho đủ”. Xuyên suốt từ năm trước đến nay, lạm phát vẫn ở mức cao dù Chính phủ đã có nhiều nỗ lực để kiềm chế. Như vậy, dù được lý giải bằng cách nào thì hình như sức dân rõ ràng là đang bị thử thách nặng nề.
Công bằng mà nói, nước ta đi lên từ xuất phát điểm rất thấp, nội lực còn hạn chế, nhà nước không thể “bao” quá nhiều khoản, do đó rất cần sự đóng góp của toàn xã hội. Sự đóng góp đó về nguyên tắc vẫn theo cách “hưởng nhiều thì đóng góp nhiều” và một phần là “có điều kiện nhiều thì đóng góp nhiều”. Đó là tinh thần chung của tất cả các nhà nước. Và, thực tế cũng cho thấy, ngay ở nước ta trước đây và một số nước khác hiện nay, khi nhà nước bao cấp quá nhiều (nhất là đầu tư lớn cho lĩnh vực an sinh xã hội) thì không còn đủ nguồn vốn để đầu tư phát triển một cách cân đối, hài hòa giữa kinh tế và xã hội.
Thông thường, trước các vấn đề xã hội, kèm một chính sách nào đó nhà nước luôn ban hành những chính sách xã hội để điều tiết sự tác động của chính sách đó, cũng như đảm bảo sự hài hòa lợi ích giữa các nhóm. Chẳng hạn, năm 2011, khi tăng giá điện thì Chính phủ cũng đồng thời quy định những hộ nghèo được hỗ trợ 30.000đ/tháng; khi ban hành Nghị quyết 11/NQ-CP có nội dung hoãn, cắt giảm một số đầu tư công thì cũng nhiều hỗ trợ cho hộ nghèo, đối tượng chính sách và cán bộ công chức có thu nhập thấp... Đó là cách phân phối lại thu nhập không chỉ hạn chế sự bất bình đẳng quá lớn giữa các nhóm dân cư mà còn một giải pháp có tính định hướng cao của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Tức là, nhà nước luôn đảm bảo phân phối lại thu nhập để giảm đến mức thấp nhất tình trạng người sở hữu tư liệu sản xuất có được thu nhập rất cao trong khi những người vì lý do nào đó không sở hữu được tư liệu sản xuất thì không được hưởng lợi gì từ thành quả chung của xã hội.
Do đó, bên cạnh hàng loạt chính sách huy động nguồn lực của nhân dân như nhà nước đang thực hiện thì người dân cũng trông đợi những chính sách xã hội tương ứng. Chẳng hạn, tăng chi phí y tế thì cũng nên mở rộng đối tượng được hưởng lợi (ngoài người nghèo, trẻ em dưới 6 tuổi, các đối tượng chính sách... đã được miễn phí bảo hiểm y tế thì cần giảm mức đồng chi trả cho một số đối tượng, nâng chất lượng khám chữa bệnh bằng bảo hiểm y tế...); hoặc, tăng giá xăng dầu thì phải có biện pháp hỗ trợ cho ngư dân, nông dân sử dụng xăng dầu đánh bắt thủy hải sản, sản xuất nông nghiệp...; hoặc đã thu phí bảo trì đường bộ thì phải giảm dần các trạm thu phí giao thông, tăng cường đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng giao thông... Và, dĩ nhiên, thu nhiều khoản phí trong dân thì phải quyết liệt kéo giảm sự thất thoát do lãng phí, tham nhũng, đầu tư kém hiệu quả đồng thời nâng cao chất lượng và thái độ phục vụ nhân dân, nhất là đối với các dịch vụ công. Nói cách khác, huy động sức dân phải để phục vụ nhân dân (dù đối tượng “dân”, nội hàm của “nhân dân” có thể khác nhau đôi chút) chứ không phải để “bù đắp” sự thất thoát do quản lý yếu kém hoặc để “nuôi” bộ máy cồng kềnh.
Ta thử hình dung, nếu toàn xã hội có n đồng mà n = n1+n2+n3+... với n1, n2, n3... là các nguồn lực của xã hội, trong đó có của nhà nước, liệu khi các nguồn trong dân lớn hay nguồn lực của nhà nước lớn thì sẽ sinh hiệu quả xã hội cao? Bởi vì, xã hội bao giờ cũng đồng thời diễn ra sự đầu tư của nhà nước và ngoài nhà nước. Do đó, trong từng giai đoạn cần có sự tính toán hợp lý để các nguồn lực đó có thể sinh lợi (cả lợi ích kinh tế lẫn lợi ích xã hội) nhiều hơn, chứ không chỉ tập trung cả về phía nhà nước. Tức là, có những lúc nhà nước phải tránh đặt ra tình huống mà sức dân bị thử thách.
Vẫn các câu khẩu hiệu cũ: “lấy sức dân chăm lo cho dân” và “nhà nước và nhân dân cùng làm”, điều đó có lẽ không có gì đáng bàn cãi. Vấn đề là sức dân phải được khoan thư một cách hợp lý, vì đó vẫn luôn là “kế sâu rễ bền gốc”.

Anh Tuấn mua xe...

Mấy tuần nay anh Nguyễn Đình Tuấn bận rộn với việc tìm mua ôtô. Trên lớp, ít còn thấy anh ngồi ghi chép cẩn thận, các đề mục kẻ mực màu đỏ...
Rồi anh cũng tìm được chiếc xe ưng ý. Một chiếc Toyota Vios mới, giá hơn 600 triệu.
Chúc mừng anh! Hi vọng đến ngày ra trường, anh em có thể có dịp chiêm ngưỡng xe và dự bữa... rửa xe hoành tráng của anh!

Anh Lê Văn Thái bỏ thuốc...

Từ tuần trước, anh Lê Văn Thái nói sẽ bỏ thuốc lá! Không rõ lý do gì đặc biệt, nhưng tinh thần chung là hoan ngênh anh!
Anh Thái cho biết đã hút thuốc gần 30 năm, từ hồi học lớp 2 lớp 3 gì đó (khiếp quá!). Hồi đó ở Quảng Bình, đám trẻ chăn trâu, chăn bò hay ra cạnh đường ray, đưa tay làm dấu hút thuốc, thế nào trong tàu cũng có người thấy và quăng xuống vài điếu thuốc... Riết thành quen và ghiền!
Không biết anh có bỏ thuốc thành công không. Nhớ hồi học đại học, thầy Nguyễn Khắc Thuần dạy môn Lịch sử Việt Nam có kể chuyện quân Tây Sơn 4 lần đánh vào Gia Định. Thầy nói: Quân Tây Sơn thắng Nguyễn Ánh 4 lần. Đã thực sự thắng thì không phải đánh nhiều lần như vậy. Rồi thầy nói vui: Giống như người ta hay nói, bỏ thuốc dễ lắm, tôi bỏ cả chục lần! Cả lớp cười ngất!
Kể lại chuyện đó cho anh Thái nghe cốt động viên anh bỏ thuốc thực sự, để không phải bỏ thuốc thêm lần nào nữa!

Thứ Tư, 28 tháng 3, 2012

Trên sông Gành Hào

Ngày 28-3, đoàn đã có chuyến đi về đất Mũi, chặng đường dài 120 km, bằng ca nô cao tốc. Dưới đây là những hình ảnh trên đoạn đi qua sông Gành Hào, nơi làm cảm hứng để nhạc sĩ Vũ Đức Sao Biển viết nên bài Đêm Gành Hào nghe điệu hoài lang.

Cảnh nhộn nhịp trên bến dưới thuyền


Chợ nhộn nhịp cả dưới sông lẫn trên bờ


Dọc bờ sông, có rất nhiều bần, đước, mấm và dừa nước.


Và những hàng đáy.


Phương tiện đi lại không còn xuồng ghe chèo tay mà hầu như chỉ có vỏ lãi, tắc ráng... gắn động cơ.

Thứ Ba, 27 tháng 3, 2012

Một kỷ niệm với Cà Mau

Tối 27-3, sau buổi làm việc, Thành ủy Cà Mau mời cơm tối cả đoàn. Một bữa tối rất vui vẻ và ngon miệng. Nhưng trời bất chợt đổ mưa to, do gần cửa sông, lại ở chỗ trũng, Nhà hàng Cà Mau bị ngập cục bộ. Dù lội bì bõm nhưng ai nấy đều thấy vui, không chút phiền lòng và cho đây là kỷ niệm đáng nhớ trong chuyến đi này...







Chim Cà Mau...

Cà Mau vốn trước kia có rất nhiều sân chim. Bây giờ giảm đi nhiều. Nhưng ngay giữa lòng TP vẫn còn nhiều chim...












và cả ong nữa...

Thăm Công viên Lâm viên 19-5

Sáng 27-3, sau khi đến TP Cà Mau vài giờ, đoàn đã đến thăm Công viên Lâm viên 19-5, nơi có đền thờ Bác Hồ, mô hình nhà sàn - ao cá của Người và vườn chim tự nhiên. Dù mọi người còn hơi mệt sau chuyến hành trình xuyên đêm nhưng ai nấy đều vui vẻ, phấn khởi...












Chuyến đi thực tế tại Cà Mau

Chiều ngày 27-3, trong chuyến đi thực tế của lớp C2 tại Cà Mau, lớp đã được Thành ủy, UBND thành phố Cà Mau tiếp và cung cấp những thông tin bổ ích về tình hình kinh tế - xã hội của thành phố và công tác xây dựng đảng của Đảng bộ.
Đồng chí Hồ Tấn Ngọc, Ủy viên Thường vụ, Phó Chủ tịch UBND TP Cà Mau đã giới thiệu khái quát và sau đó các đồng chí lãnh đạo các ban đảng Thành ủy đã bổ sung thêm nhiều thông tin, cách làm, kinh nghiệm quý.
Dưới đây là một số hình ảnh của buổi làm việc:
Đoàn đặt thêm một số câu hỏi.


Đồng chí Hồ Tấn Ngọc trả lời thêm.

Thầy Lê Công Minh, trưởng đoàn, tặng quà lưu niệm cho Thành ủy, UBND TP Cà Mau.


Chụp ảnh lưu niệm.

Thứ Hai, 5 tháng 3, 2012

CA DAO THỜI BAO CẤP

Lương chồng, lương vợ, lương con
Đi ba buổi chợ chỉ còn lương tâm
Lương tâm đem chặt ra hầm
Với rau muống luộc khen thầm là ngon.

----------------
Ăn tranh thủ, ngủ khẩn trương, làm việc bình thường

------------------
Cây đinh phải đăng ký
Trái bí cũng sắp hàng
Khoai lang cần tem phiếu
Thuốc điếu phải mua bông
Lấy chồng nên cai đẻ
Bán lẻ chạy công an
Lang thang đi cải tạo
Hết gạo ăn bo bo
Học trò không có tập... 

-------------------

Lao động là vinh quang
Lang thang là chết đói
Hay nói thì ở tù
Lù khù thì đi kinh tế mới.

----------------

Hoan hô các bác trồng cây
Mười cây chết chín, một cây gật gù
Các cháu có mắt như mù
Mười cây chết tiệt, gật gù ở đâu?

--------------------

Thi đua làm việc bằng hai
Để cho cán bộ mua đài mua xe
Thi đua làm việc bằng ba
Để cho cán bộ xây nhà lót sân

-----------------------

Bảo nắng mà trời lại mưa
Mấy thằng khí tượng đoán bừa hại tao
Trời làm một trận mưa rào
Mấy thằng khí tượng làm tao ướt rồi.

Nhất gạo nhì rau
Tam dầu tứ muối
Thịt thì đuôi đuối 
Cá biển mất mùa
Đậu phụ chua chua
Nước chấm nhạt thếch
Mì chính có đếch
Vải sợi chưa về
Săm lớp thiếu ghê
Cái gì cũng thiếu....

-----------------------------
Cán bộ cao ăn cung cấp
Cán bộ thấp ăn chợ đen
Cán bộ quen ăn cổng hậu.

Tham khảo

Đô thị Việt Nam

Theo vi.wikipedia.org
Các đô thị tại Việt Nam là những thành phố, thị xã, thị trấn được cơ quan nhà nước có thẩm quyền ra quyết định thành lập.

Phân loại đô thị

Tại Việt Nam, trước đây việc phân loại đô thị thực hiện theo Nghị định số 72/2001/NĐ-CP ngày 05 tháng 10 năm 2001 của Chính phủ[1]. Từ ngày 2 tháng 7 năm 2009, việc phân loại đô thị thực hiện theo Nghị định số 42/2009/NĐ-CP ngày 07 tháng 5 năm 2009 của Chính phủ[2]
Tại Việt Nam hiện có 6 loại hình đô thị: loại đặc biệt và từ loại I đến loại V. Nghị định số 42/2009/NĐ-CP sử dụng số La Mã để phân loại đô thị, nhưng nhiều tài liệu vẫn dùng số Ả Rập: loại 1 đến loại 5.
Theo Nghị định số 42/2009/NĐ-CP, một đơn vị hành chính để được phân loại là đô thị thì phải có các tiêu chuẩn cơ bản như sau:
  1. Có chức năng đô thị: là trung tâm tổng hợp hoặc trung tâm chuyên ngành, cấp quốc gia, cấp vùng liên tỉnh, cấp tỉnh, cấp huyện hoặc là một trung tâm của vùng trong tỉnh; có vai trò thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của cả nước hoặc một vùng lãnh thổ nhất định.
  2. Quy mô dân số toàn đô thị đạt 4 nghìn người trở lên.
  3. Mật độ dân số phù hợp với quy mô, tính chất và đặc điểm của từng loại đô thị và được tính trong phạm vi nội thành, nội thị, riêng đối với thị trấn thì căn cứ theo các khu phố xây dựng tập trung.
  4. Tỷ lệ lao động phi nông nghiệp (tính trong phạm vi ranh giới nội thành, nội thị, khu vực xây dựng tập trung) phải đạt tối thiểu 65% so với tổng số lao động.
  5. Đạt được các yêu cầu về hệ thống công trình hạ tầng đô thị (gồm hạ tầng xã hội và hạ tầng kỹ thuật).
  6. Đạt được các yêu cầu về kiến trúc, cảnh quan đô thị.
Đối với các đô thị ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo thì các tiêu chí đánh giá được nới lỏng hơn: quy mô dân số và mật độ dân số tối thiểu phải đạt 50% tiêu chuẩn quy định, các tiêu chuẩn khác phải bảo đảm tối thiểu 70% mức tiêu chuẩn quy định so với các loại đô thị tương đương. Đối với một số đô thị có tính chất đặc thù, tiêu chuẩn về quy mô dân số và mật độ dân số tối thiểu phải đạt 60% tiêu chuẩn quy định, các tiêu chuẩn khác phải đạt quy định so với các loại đô thị tương đương và bảo đảm phù hợp với tính chất đặc thù của mỗi đô thị.

Đô thị loại đặc biệt

Đô thị loại đặc biệt, trong cách phân loại theo Nghị định số 72/2001/NĐ-CP, là các đô thị:
  1. Giữ vai trò "trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa, khoa học - kỹ thuật, đào tạo, du lịch, dịch vụ, đầu mối giao thông, giao lưu trong nước và quốc tế, có vai trò thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của cả nước".
  2. Quy mô dân số toàn đô thị từ 5 triệu người trở lên.
  3. Mật độ dân số nội đô bình quân từ 15.000 người/km² trở lên.
  4. Tỷ lệ lao động phi nông nghiệp trong tổng số lao động ở khu vực nội đô từ 90% trở lên.
  5. Có cơ sở hạ tầng được xây dựng nhiều mặt đồng bộ và hoàn chỉnh.
Hiện ở Việt Nam có hai thành phố được chính phủ xếp loại đô thị đặc biệt là thủ đô Hà Nộithành phố Hồ Chí Minh. Ngoài ra, Hải Phòng cũng đang được xem xét là đô thị loại đặc biệt vào năm 2020, muộn nhất là 2025. Để hỗ trợ chính quyền hai thành phố này hoàn thành chức năng của đô thị loại đặc biệt, Chính phủ cho Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh hưởng một số cơ chế tài chính-ngân sách đặc thù[3].

Đô thị loại I

Đô thị loại I, trong cách phân loại đô thị ở Việt Nam, là những đô thị giữ vai trò trung tâm quốc gia hoặc trung tâm vùng lãnh thổ liên tỉnh. Tiêu chí xác định thành phố là đô thị loại I gồm:
  1. Đô thị với chức năng là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa, khoa học kỹ thuật, du lịch, dịch vụ, đầu mối giao thông, giao lưu trong nước và quốc tế có vai trò thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của một vùng lãnh thổ liên tỉnh hoặc của cả nước.
  2. Quy mô dân số toàn đô thị từ 1 triệu người trở lên đối với đô thị trực thuộc trung ương và từ 500 nghìn người trở lên đối với đô thị trực thuộc tỉnh.
  3. Mật độ dân số nội đô bình quân từ 12.000 người/km² trở lên đối với đô thị trực thuộc trung ương và từ 10.000 người/km² trở lên đối với đô thị trực thuộc tỉnh.
  4. Tỷ lệ lao động phi nông nghiệp trong tổng số lao động ở khu vực nội đô từ 85% trở lên.
  5. Có cơ sở hạ tầng được xây dựng nhiều mặt đồng bộ và hoàn chỉnh.
Hiện ở Việt Nam có 3 thành phố trực thuộc trung ương là đô thị loại I, gồm: Hải Phòng, Đà NẵngCần Thơ. 8 thành phố trực thuộc tỉnh là đô thị loại I, gồm: Huế, Vinh, Đà Lạt, Nha Trang, Quy Nhơn, Buôn Ma Thuột, Thái NguyênNam Định.
Hải Phòng là đô thị trung tâm của vùng duyên hải Bắc Bộ, Đà Nẵng là đô thị trung tâm của miền Trung, Cần Thơ là trung tâm của vùng Tây Nam Bộ. Thái Nguyên là trung tâm vùng trung du và miền núi phía Bắc. Nam Định là trung tâm của vùng Nam đồng bằng sông Hồng. VinhHuế là hai trung tâm của Bắc Trung Bộ. Đà LạtBuôn Ma Thuột là hai trung tâm của khu vực Tây Nguyên. Nha TrangQuy Nhơn là hai trung tâm của Duyên hải Nam Trung Bộ.

Đô thị loại II

Đô thị loại II phải đảm bảo các tiêu chuẩn sau đây:
  1. Đô thị với chức năng là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa, khoa học kỹ thuật, du lịch, dịch vụ, đầu mối giao thông, giao lưu trong vùng tỉnh, vùng liên tỉnh hoặc cả nước, có vai trò thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của một vùng lãnh thổ liên tỉnh hoặc một số lĩnh vực đối với cả nước.
  2. Quy mô dân số toàn đô thị từ 800 nghìn người trở lên đối với đô thị trực thuộc trung ương và từ 300 nghìn người trở lên đối với đô thị trực thuộc tỉnh.
  3. Mật độ dân số nội đô bình quân từ 10.000 người/km² trở lên đối với đô thị trực thuộc trung ương và từ 8.000 người/km² trở lên đối với đô thị trực thuộc tỉnh.
  4. Tỷ lệ lao động phi nông nghiệp trong tổng số lao động ở nội đô từ 80% trở lên.
  5. Có cơ sở hạ tầng được xây dựng nhiều mặt tiến tới tương đối đồng bộ và hoàn chỉnh.
Hiện nay có 11 thành phố trực thuộc tỉnh là đô thị loại II gồm: Biên Hòa; Hạ Long; Vũng Tàu; Việt Trì; Hải Dương; Thanh Hóa; Mỹ Tho; Long Xuyên; Pleiku; Phan Thiết; Cà Mau.
Trong số 11 Đô thị loại II trên, Theo dự thảo chương trình phát triển đô thị quốc gia giai đoạn 2011-2020 được Bộ Xây dựng trình Thủ tướng, có 4 đô thị sẽ được nâng lên loại I là: Vũng Tàu (Bà Rịa-Vũng Tàu), Hạ Long (Quảng Ninh), Thanh Hóa (Thanh Hóa), Việt Trì (Phú Thọ); đưa tổng đô thị loại I cả nước lên 15 đô thị.[4]
Quyền quyết định công nhận đô thị loại đặc biệt, loại Iloại II thuộc về thủ tướng chính phủ Việt Nam.[5]

Đô thị loại III

Đô thị loại III phải đảm bảo các tiêu chuẩn sau đây:
  1. Đô thị với chức năng là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa, khoa học kỹ thuật, dịch vụ, đầu mối giao thông, giao lưu trong tỉnh hoặc vùng liên tỉnh, có vai trò thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của một tỉnh hoặc một số lĩnh vực đối với vùng liên tỉnh;
  2. Quy mô dân số toàn đô thị từ 150 nghìn người trở lên.
  3. Mật độ dân số khu vực nội thành, nội thị từ 6.000 người/km² trở lên.
  4. Tỷ lệ lao động phi nông nghiệp trong tổng số lao động nội đô từ 75% trở lên;
  5. Có cơ sở hạ tầng được xây dựng từng mặt đồng bộ và hoàn chỉnh;
Đô thị loại III có thể là một thị xã hoặc thành phố trực thuộc tỉnh. Tại thời điểm 7/8/2010, Việt Nam có 32 đô thị loại III. Đến 1/10/2010, Việt Nam có 35 đô thị loại III. Đến 9/2011 có 37 đô thị loại III.
Trong số 37 Đô thị loại III trên, Theo dự thảo chương trình phát triển đô thị quốc gia giai đoạn 2011-2020 được Bộ Xây dựng trình Thủ tướng, có 15 đô thị loại III sẽ được nâng lên thành đô thị loại II, gồm Lào Cai (Lào Cai), Điện Biên Phủ (Điện Biên), Lạng Sơn (Lạng Sơn), Vĩnh Yên (Vĩnh Phúc), Móng Cái, Cẩm Phả (Quảng Ninh), Thái Bình (Thái Bình), Ninh Bình (Ninh Bình), Đồng Hới (Quảng Bình), Tuy Hòa (Phú Yên), Quảng Ngãi (Quảng Ngãi), Rạch Giá (Kiên Giang), Vị Thanh (Hậu Giang), Sóc Trăng (Sóc Trăng), Thủ Dầu Một (Bình Dương); đưa tổng đô thị loại II của Việt Nam lên 12-27 đô thị.[6]

Đô thị loại IV

Đô thị loại IV phải đạt các tiêu chuẩn sau đây:
  1. Chức năng đô thị: là trung tâm kinh tế, văn hóa, hành chính, khoa học – kỹ thuật, giáo dục – đào tạo, du lịch, dịch vụ, đầu mối giao thông, giao lưu của một vùng trong tỉnh hoặc một tỉnh, có vai trò thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của một vùng trong tỉnh hoặc một số lĩnh vực đối với một tỉnh.
  2. Quy mô dân số toàn đô thị từ 50 nghìn người trở lên.
  3. Mật độ dân số khu vực nội thị từ 4.000 người/km² trở lên.
  4. Tỷ lệ lao động phi nông nghiệp khu vực nội thị tối thiểu đạt 70% so với tổng số lao động.
  5. Hệ thống các công trình hạ tầng đô thị đạt các tiêu chí quy định
  6. Kiến trúc, cảnh quan đô thị từng bước được thực hiện theo quy chế quản lý kiến trúc đô thị.
Các đô thị loại IV có thể là thị xã hoặc thị trấn.
Quyền quyết định đô thị loại III và loại IV thuộc về Bộ Xây dựng Việt Nam xem xét, thẩm định và quyết định công nhận.[7]

Đô thị loại V

Đô thị loại V phải đạt các tiêu chuẩn sau đây:
  1. Chức năng đô thị: là trung tâm tổng hợp hoặc chuyên ngành về kinh tế, hành chính, văn hóa, giáo dục – đào tạo, du lịch, dịch vụ có vai trò thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của huyện hoặc một cụm xã.
  2. Quy mô dân số toàn đô thị từ 4 nghìn người trở lên.
  3. Mật độ dân số bình quân từ 2.000 người/km² trở lên.
  4. Tỷ lệ lao động phi nông nghiệp tại các khu phố xây dựng tối thiểu đạt 65% so với tổng số lao động.
  5. Hệ thống các công trình hạ tầng đô thị: từng mặt đã hoặc đang được xây dựng tiến tới đồng bộ.
  6. Kiến trúc, cảnh quan đô thị từng bước được thực hiện theo quy chế quản lý kiến trúc đô thị.
Các đô thị loại V là thị trấn.
Quyền quyết định công nhận đô thị loại V thuộc về Ủy ban nhân dân cấp tỉnh.[8]

Chú thích

  1. ^ Dự kiến nâng hạng 123 đô thị, Hoàng Vân, Báo Pháp Luật, 26/09/2011
  2. ^ Nghị định 42/2009/NĐ-CP, chương III, điều 17, tiểu mục 1 và 2
  3. ^ Dự kiến nâng hạng 123 đô thị, Hoàng Vân, Báo Pháp Luật, 26/09/2011
  4. ^ Nghị định 42/2009/NĐ-CP, chương III, điều 17, tiểu mục 3
  5. ^ Nghị định 42/2009/NĐ-CP, chương III, điều 18, tiểu mục 2

Tham khảo